Creative Corner

Thứ Sáu, 30 tháng 9, 2011

Tìm ra bệnh của chồng

Sữa dê là thu nhập trong nhiều năm liền của cả nhà. Trong đàn dê gần trăm con ấy có bốn con dê đực, nhiệm vụ của chúng chỉ đơn giản là ăn cỏ và… không nói ra thì ai cũng biết.
Bỗng một hôm, con dê đực khoẻ nhất đột nhiên lăn ra ốm. Nó ăn uống bình thường nhưng lại hay thở khò khè, thỉnh thoảng khạc khạc có vẻ khó chịu.
Sau khi tìm đủ mọi cách tự chữa cho con dê ấy không được, bà chủ nhà quyết định mang mời một bác sĩ thú y đến nhà. Vị bác sĩ đến, khám cho con dê xong, hỏi:
- Nó ăn uống bình thường phải không, thưa bà?
- Vâng!
- Thế thì con dê nhà bà không mắc bệnh gì cả.
- Nhưng tại sao nó thở khó khè và khạc nhổ liên tục - Bà chủ nhà thắc mắc.
- À, chuyện đó là do nó có tật ngửi và cắn lông dê cái, lông dê cái trôi vào miệng làm nó khó thở và muốn khạc nhổ.
Bà chủ nhà nghe xong thì sắc mặt chuyển ngay sang màu tím:
- Trời ơi! Vậy bây giờ thì tôi đã hiểu tại sao tuần nào lão chồng tôi cũng lên thành phố rồi.
- Chắc ông nhà đi bán sữa dê?
- Không!
- Vậy thì ông ấy thích lên thành phố có liên quan gì đến bệnh tật của con dê này?
- Vì lão ta ăn uống bình thường, nhưng tối nào lão cũng thở khò khè, còn ban ngày thì lão lại khạc nhổ liên tục!

Thứ Năm, 29 tháng 9, 2011

Anh chàng 'thích' ngửi mùi xì hơi của girl

Mới nghe qua, ai cũng nghĩ đây đích thực là người biến thái với sở thích không bình thường. Nhưng hãy nhìn cách anh ấy vui vẻ chia sẻ và mời mọi người tham gia việc ngửi mùi xì hơi thì những ác cảm ban đầu đã nhanh chóng tan biến.
Những ngày gần đây, mọi người ngang qua quảng trường Union ở thành phố New York (Mỹ) không còn xa lạ gì mới một chàng trai trẻ tuổi cầm tấm biển “Fart Smeller Movement” (Tạm dịch là: Phong trào ngửi mùi xì hơi).
Anh chàng có tên Roman, lượn lờ khắp quảng trường và đề nghị các cô gái cho mình ngửi mùi xì hơi của họ. Tất nhiên, phản ứng ban đầu của bất kỳ ai đều là từ chối, nhưng ngay sau khi xem các bức ảnh mà anh ấy chụp lại những lần thực hiện trước đó và giải thích rằng anh ấy muốn đấu tranh vì tự do và nhân quyền, thì một số người đã vui vẻ chấp nhận.
Ngồi quỳ xuống đất rồi áp mặt vào mông của các cô gái, anh Roman dùng thủ thuật nhỏ để khiến họ phải xì hơi. Chẳng hiểu sao, anh ý còn khen mùi xì hơi thơm nữa chứ.
Một cô gái đã cho phép anh ngửi mùi xì hơi của mình bỗng quay lại với vẻ mặt hậm hực. Cô ấy nói ai đó đã quay lại video anh Roman ngửi mông mình rồi đăng tải lên Youtube, và yêu cầu phải gỡ bỏ. Chàng trai “thích” mùi xì hơi này vui vẻ nói. Đấy, như vậy là quyền con người đã được tôn trọng ở đây.
Xem lại hành động kỳ quặc của anh chàng thích ngửi mùi xì hơi.

Tầm quan trọng của bữa sáng

Bữa ăn sáng là bữa ăn chính quan trọng nhất trong ngày vì nhiều lý do: đây là bữa ăn đầu tiên sau một khoảng thời gian dài ngưng ăn 10 – 12 tiếng đồng hồ, từ bữa ăn tối hôm trước nên cơ thể rất cần được nạp năng lượng. Thông thường, chúng ta hoạt động nhiều vào buổi sáng, nên để bắt đầu một ngày mới đầy sức sống, cơ thể rất cần được cung cấp đủ năng lượng và dưỡng chất. Bỏ qua bữa ăn sáng dễ dẫn đến hạ đường huyết, giảm khả năng tập trung làm việc và học tập, khả năng sáng tạo cũng giảm, nguy hiểm hơn là có thể dẫn đến tai nạn lao động như té ngã khi đang làm việc trên cao do thao tác kém chính xác vì cơ thể thiếu năng lượng, hạ đường huyết.
Dù là người đang trong chế độ ăn giảm cân hay không muốn tăng cân cũng cần phải có bữa ăn sáng vì năng lượng từ bữa ăn sáng thường sẽ được sử dụng hết chứ không tích luỹ trong cơ thể như năng lượng từ những bữa ăn chiều tối.
Một điều quan trọng nữa là thức ăn vào dạ dày buổi sáng có tác dụng kích thích sự tiết dịch vị cả ngày làm cho cơ thể tiêu hoá tốt hơn, duy trì khả năng tiêu hoá và sự thèm ăn. Nên cách ăn hợp lý nhất là ăn đầy đủ vào buổi sáng, buổi trưa, ăn ít trong bữa tối.

Gợi ý thực đơn bữa sáng
Bữa ăn sáng đầy đủ phải cung cấp từ 1/4 đến 1/3 nhu cầu năng lượng của cả ngày cho cơ thể, nên có ngũ cốc hoặc khoai củ, thực phẩm giàu đạm, rau và trái cây. Ngũ cốc khoai củ sẽ chuyển hoá thành đường hấp thu từ từ vào máu giúp đường huyết ổn định hơn so với các loại thức ăn/uống ngọt từ đường tinh chế như bánh kẹo, nước ngọt. Đường huyết ổn định sẽ giúp não hoạt động tốt. Chất đạm giúp cung cấp acid amin giúp tái tạo tế bào, tạo chất dẫn truyền thần kinh giúp tăng cường hoạt động trí não. Chất xơ có trong rau giúp làm chậm sự hấp thu đường vào máu. Vitamin và chất khoáng từ trái cây giúp tạo cảm giác khoẻ khoắn.
Bữa ăn sáng đầy đủ có thể là dĩa cơm tấm với miếng sườn nướng, dưa leo, cà chua, thêm trái chuối; một tô phở bò với rau, giá và ly nước cam; hoặc tự chuẩn bị tô mì gói thêm một cái trứng với ít rau xanh, cà chua, một hũ sữa chua. Đơn giản hơn, có thể là một gói xôi đậu xanh (hoặc đậu phộng, đậu đen) với mè, dừa hộp sữa đậu nành (hoặc sữa tươi, sữa chua) cũng rất tốt.
Đối với những người không quen ăn sáng mà chỉ uống càphê hoặc chỉ một ly sữa thì vẫn có thể tập ăn sáng bằng cách thêm một mẩu bánh mì nhỏ hoặc ngũ cốc vào sữa, và khoảng một – hai tiếng sau thì thêm một nắm đậu phộng nấu cùng một trái chuối. Sau đó, tăng dần bữa sáng của mình lên một cách đầy đủ hơn. Đối với học sinh phải đi học từ rất sớm thì có thể chuẩn bị một bữa sáng gọn nhẹ, có thể mang theo đến trường như bánh mì thịt hoặc cá hộp, dưa leo, kèm hộp sữa tươi; hoặc vài củ khoai lang, cái trứng luộc, một trái chuối và hũ sữa chua.
TS.BS Trần Thị Minh Hạnh
Trưởng khoa dinh dưỡng cộng đồng,
trung tâm Dinh dưỡng TP.HCM

Thứ Ba, 27 tháng 9, 2011

Elaboration likelihood model

The elaboration likelihood model (ELM) of persuasion is a model of how attitudes are formed and changed that was developed by R. E. Petty and J. T. Cacioppo in the early 1980s (see also attitude change). Central to this model is the "elaboration continuum", which ranges from low elaboration (low thought) to high elaboration (high thought). The ELM distinguishes between two routes to persuasion: the "central route," where a subject considers an idea logically, and the "peripheral route," in which the audience uses preexisting ideas and superficial qualities to be persuaded

Central route
Central route processes are those that require a great deal of thought, and therefore are likely to predominate under conditions that promote high elaboration. Central route processes involve careful scrutiny of a persuasive communication (e.g., a speech, an advertisement, etc.) to determine the merits of the arguments. Under these conditions, a person's unique cognitive responses to the message determine the persuasive outcome (i.e., the direction and magnitude of attitude change). So, if favorable thoughts are a result of the elaboration process, the message will most likely be accepted (i.e., an attitude congruent with the message's position will emerge), and if unfavorable thoughts are generated while considering the merits of presented arguments, the message will most likely be rejected. In order for the message to be centrally processed, a person must have the ability and motivation to do so.

Peripheral route
Peripheral route processes, on the other hand, do not involve elaboration of the message through extensive cognitive processing of the merits of the actual argument presented. These processes often rely on environmental characteristics of the message, like the perceived credibility of the source, quality of the way in which it is presented, the attractiveness of the source, or the catchy slogan that contains the message.


  
Choice of route
The two factors that most influence which route an individual will take in a persuasive situation are motivation (strong desire to process the message; e.g., Petty & Cacioppo, 1979) and ability (actually being capable of critical evaluation; e.g., Petty, Wells, & Brock, 1976). Which route is taken is determined by the extent of elaboration. Both motivational and ability factors determine elaboration. Motivational factors include (among others) the personal relevance of the message topic, accountability, and a person's "need for cognition" (their innate desire to enjoy thinking). Ability factors include the availability of cognitive resources (e.g., the presence or absence of time pressures or distractions) or relevant knowledge needed to carefully scrutinize the arguments. The subject's general education level, as well as their education and experience with the topic at hand greatly affect their ability to be persuaded. Under conditions of moderate elaboration, a mixture of central and peripheral route processes will guide information processing

 Testing the Elaboration Likelihood Model
To design a way to test the Elaboration Likelihood Model, it is crucial to determine whether an argument is universally seen as strong or weak. If an argument is inconsistent in opinions of strength, the results of persuasion will be inconsistent. In general, a weak argument that is universally viewed as weak will entice unfavorable results if the subject is instructed to and is in an appropriate environment to consider it logically (or when testing the central route of the Elaboration Likelihood Model). In turn, a strong argument under similar circumstances will return favorable results. The test arguments must also be rated for ease of understanding, complexity, and familiarity. To scientifically study either route of the Elaboration Likelihood Model, the arguments themselves must be designed to have consistent results.
.

Thứ Hai, 26 tháng 9, 2011

How does the Maslow's Hierarchy work ?

How does the Hierarchy Work?
- A person starts at the bottom of the hierarchy (pyramid) and will initially seek to satisfy basic needs (e.g. food, shelter)
- Once these physiological needs have been satisfied, they are no longer a motivator. the individual moves up to the next level
- Safety needs at work could include physical safety (e.g. protective clothing) as well as protection against unemployment, loss of income through sickness etc)
- Social needs recognise that most people want to belong to a group. These would include the need for love and belonging (e.g. working with colleague who support you at work, teamwork, communication)
- Esteem needs are about being given recognition for a job well done. They reflect the fact that many people seek the esteem and respect of others. A promotion at work might achieve this
- Self-actualisation is about how people think about themselves - this is often measured by the extent of success and/or challenge at work
Maslow's model has great potential appeal in the business world. The message is clear - if management can find out which level each employee has reached, then they can decide on suitable rewards.

Problems with the Maslow Model
There are several problems with the Maslow model when real-life working practice is considered:
- Individual behaviour seems to respond to several needs - not just one
- The same need (e.g. the need to interact socially at work) may cause quite different behaviour in different individuals
- There is a problem in deciding when a level has actually been "satisfied"
- The model ignores the often-observed behaviour of individuals who tolerate low-pay for the promise of future benefits
- There is little empirical evidence to support the model. Some critics suggest that Maslow's model is only really relevant to understanding the behaviour of middle-class workers in the UK and the USA (where Maslow undertook his research).

Explanation for Maslow's hierarchy

Maslow’s hierarchy of needs is most often displayed as a pyramid. The lowest levels of the pyramid are made up of the most basic needs, while the more complex needs are located at the top of the pyramid. Needs at the bottom of the pyramid are basic physical requirements including the need for food, water, sleep and warmth. Once these lower-level needs have been met, people can move on to the next level of needs, which are for safety and security.
As people progress up the pyramid, needs become increasingly psychological and social. Soon, the need for love, friendship and intimacy become important. Further up the pyramid, the need for personal esteem and feelings of accomplishment take priority. Like Carl Rogers, Maslow emphasized the importance of self-actualization, which is a process of growing and developing as a person to achieve individual potential.

Types of Needs

Maslow believed that these needs are similar to instincts and play a major role in motivating behavior. Physiological, security, social, and esteem needs are deficiency needs (also known as D-needs), meaning that these needs arise due to deprivation. Satisfying these lower-level needs is important in order to avoid unpleasant feelings or consequences.
Maslow termed the highest-level of the pyramid as growth needs (also known as being needs or B-needs). Growth needs do not stem from a lack of something, but rather from a desire to grow as a person.

Five Levels of the Hierarchy of Needs

There are five different levels in Maslow’s hierarchy of needs:
  1. Physiological Needs
    These include the most basic needs that are vital to survival, such as the need for water, air, food and sleep. Maslow believed that these needs are the most basic and instinctive needs in the hierarchy because all needs become secondary until these physiological needs are met.
  2. Security Needs
    These include needs for safety and security. Security needs are important for survival, but they are not as demanding as the physiological needs. Examples of security needs include a desire for steady employment, health insurance, safe neighborhoods and shelter from the environment.
  3. Social Needs
    These include needs for belonging, love and affection. Maslow considered these needs to be less basic than physiological and security needs. Relationships such as friendships, romantic attachments and families help fulfill this need for companionship and acceptance, as does involvement in social, community or religious groups.
  4. Esteem Needs
    After the first three needs have been satisfied, esteem needs becomes increasingly important. These include the need for things that reflect on self-esteem, personal worth, social recognition and accomplishment.
  5. Self-actualizing Needs
    This is the highest level of Maslow’s hierarchy of needs. Self-actualizing people are self-aware, concerned with personal growth, less concerned with the opinions of others and interested fulfilling their potential.

The meaning of Maslow's Hierarchy of needs theory

In 1943, Abraham Maslow's article A Theory of Human Motivation appeared in Psychological Review, which were further expanded upon in his book: Toward a Psychology of Being  In this article, Abraham Maslow attempted to formulate a needs-based framework of human motivation and based upon his clinical experiences with humans, rather than prior psychology theories of his day from leaders in the field of psychology such as Freud and B.F. Skinner, which were largely theoretical or based upon animal behavior.

From Maslow's theory of motivation, modern leaders and executive managers find means of employee motivation for the purposes of employee and workforce management. Nearly every masters degree program, whether it be marketing, psychology, or project management includes a discussion about how Maslow's needs hierarchy impacts their given profession:
  • Masters in psychology need to understand this fundamental building block to modern theories of motivation.
  • Masters in marketing need to understand the motivation of their target demographic to suitably identify a campaign that approaches their current level of need.
  • Masters in project management need to approach their team members and stakeholders with the appropriate motivation to effectively deliver their projects
The basis of Maslow's theory of motivation is that human beings are motivated by unsatisfied needs, and that certain lower needs need to be satisfied before higher needs can be addressed. Per the teachings of Abraham Maslow, there are general needs (physiological, safety, love, and esteem) which have to be fulfilled before a person is able to act unselfishly. These needs were dubbed "deficiency needs." While a person is motivated to fulfill these basal desires, they continue to move toward growth, and eventually self-actualization. The satisfaction of these needs is quite healthy. while preventing their gratification makes us ill or act evilly.




Maslow's Hierarchy of Needs


Maslow's Hierarchy of Needs Chart

As a result, for adequate workplace motivation, it is important that leadership understands which needs are active for individual employee motivation. In this regard, Abraham Maslow's model indicates that basic, low-level needs such as physiological requirements and safety must be satisfied before higher-level needs such as self-fulfillment are pursued. As depicted in this hierarchical diagram, sometimes called 'Maslow's Needs Pyramid' or 'Maslow's Needs Triangle', when a need is satisfied it no longer motivates and the next higher need takes its place.





Self-Actualization

Esteem Needs

Social Needs

Safety Needs

Physiological Needs





Thứ Bảy, 24 tháng 9, 2011

Attitude

An attitude is a hypothetical construct that represents an individual's degree of like or dislike for something. Attitudes are generally positive or negative views of a person, place, thing, or event— this is often referred to as the attitude object. People can also be conflicted or ambivalent toward an object, meaning that they simultaneously possess both positive and negative attitudes toward the item in question.
Attitudes are judgments. They develop on the ABC model (affect, behavior, and cognition). The affective response is an emotional response that expresses an individual's degree of preference for an entity. The behavioral intention is a verbal indication or typical behavioral tendency of an individual. The cognitive response is a cognitive evaluation of the entity that constitutes an individual's beliefs about the object. Most attitudes are the result of either direct experience or observational learning from the environment.

Attitude change

Attitudes can be changed through persuasion and we should understand attitude change as a response to communication. Experimental research into the factors that can affect the persuasiveness of a message include:
  1. Target Characteristics: These are characteristics that refer to the person who receives and processes a message. One such trait is intelligence - it seems that more intelligent people are less easily persuaded by one-sided messages. Another variable that has been studied in this category is self-esteem. Although it is sometimes thought that those higher in self-esteem are less easily persuaded, there is some evidence that the relationship between self-esteem and persuasibility is actually curvilinear, with people of moderate self-esteem being more easily persuaded than both those of high and low self-esteem levels (Rhodes & Woods, 1992). The mind frame and mood of the target also plays a role in this process.
  2. Source Characteristics: The major source characteristics are expertise, trustworthiness and interpersonal attraction or attractiveness. The credibility of a perceived message has been found to be a key variable here; if one reads a report about health and believes it came from a professional medical journal, one may be more easily persuaded than if one believes it is from a popular newspaper. Some psychologists have debated whether this is a long-lasting effect and Hovland and Weiss (1951) found the effect of telling people that a message came from a credible source disappeared after several weeks (the so-called "sleeper effect"). Whether there is a sleeper effect is controversial. Perceived wisdom is that if people are informed of the source of a message before hearing it, there is less likelihood of a sleeper effect than if they are told a message and then told its source.
  3. Message Characteristics: The nature of the message plays a role in persuasion. Sometimes presenting both sides of a story is useful to help change attitudes.
 Cognitive Routes: A message can appeal to an individual's cognitive evaluation to help change an attitude. In the central route to persuasion the individual is presented with the data and motivated to evaluate the data and arrive at an attitude changing conclusion. In the peripheral route to attitude change, the individual is encouraged to not look at the content but at the source. This is commonly seen in modern advertisements that feature celebrities. In some cases, physician, doctors or experts are used. In other cases film stars are used for their attractiveness.

Attitude change

From Wikipedia, the free encyclopedia
Attitudes are the evaluations and associated beliefs and behaviors towards some object. They are not stable, and because of the communication and behavior of other people, are subject to change by social influences, as well as an individual's motivation to maintain cognitive consistency when cognitive dissonance occurs--when two attitudes or when attitude and behavior conflict. Attitudes and attitude objects are functions of affective and cognitive components. It has been suggested that the inter-structural composition of an associative network can be altered by the activation of a single node. Thus, by activating an affective or emotion node, attitude change may be possible, though affective and cognitive components tend to be intertwined.

 Bases for attitude change
 There are three bases for attitude change, which includes compliance, identification, and internalization. These three processes represent the different levels of attitude change

Compliance

Compliance refers to a change in behavior based on consequences, such as an individual’s hopes to gain rewards or avoid punishment from another group or person. The individual does not necessarily experience changes in beliefs or evaluation towards an attitude object, but rather is influenced by the social outcomes of adopting a change in behavior. The individual is also often aware that he or she is being urged to respond in a certain way.
Compliance was demonstrated through a series of laboratory experiments known as the Asch experiments. Experiments led by Solomon Asch of Swarthmore College asked groups of students to participate in a "vision test". In reality, all but one of the participants were confederates of the experimenter, and the study was really about how the remaining student would react to the confederates' behavior. Participants were asked to pick, out of three line options, the line that is the same length as a sample and were asked to give the answer out loud. Unbeknown to the participants, Asch had placed a number of confederates to deliberately give the wrong answer before the participant. The results showed that 75% of participants succumbed to the majority's influence and gave the answer the confederates picked. Variations in the experiments showed that compliance rates increased as the number of confederates increased, which plateaus at around 15 confederates. Also, minority opposition, such as if even one confederate gave the correct answer, the likelihood of compliance drops. The basis for compliance is founded on the fundamental idea that people want to be accurate and right

Identification

Identification explains one’s change of beliefs and affect in order to be similar to someone who one admires or likes. In this case, the individual adopts the new attitude, not due to the specific content of the attitude object, but more so because it is associated with the desired relationship. Often, children’s attitudes on race, or their political party affiliations are adopted from their parents’ attitudes and beliefs.

Internalization

Internalization refers to the change in beliefs and affect when one finds the content of the attitude to be intrinsically rewarding, and thus leading to actual change in beliefs or evaluation towards an attitude object. The new attitude or behavior is consistent with the individual’s value system, and tends to be merged with the individual’s existing values and beliefs. Therefore, behavior adopted through internalization are due to the content of the attitude object.
The Expectancy-value theory is based on internalization of atittude change. This model describes the states that the behavior towards some object is a function of an individual’s intent, which is a function of one’s overall attitude towards the action.









Thứ Sáu, 23 tháng 9, 2011

So sánh cực thú vị về Sài Gòn sau một thế kỷ

Đầu thế kỷ 20 đàn ông Nam bộ không còn búi tóc củ hành nên nghề cắt tóc ra đời; giày dép bắt đầu phổ biến làm xuất hiện nghề sửa giày... Ngày nay trên vỉa hè vẫn còn ông thợ hớt tóc dạo, người thợ sửa giày lâu năm... Không còn hình ảnh lam lũ chân đất áo bà ba như xưa, nhưng trong mưu sinh người Sài Gòn ngày nay vẫn giữ những nét văn hóa cơ bản của đầu thế kỷ 20.

Từ những năm 1910-1930, nam giới đã không còn búi tóc củ hành mà bắt đầu cắt tóc ngắn. Theo đó, nghề hớt tóc dạo đường phố ra đời. Đến nay, các tiệm cắt tóc, salon tóc đã chuyên nghiệp hơn, tích hợp nhiều dịch vụ tiện ích, nhưng thỉnh thoảng đâu đó trên vỉa hè đường phố Sài Gòn, dưới những bóng cây mát vẫn còn những người thợ cắt tóc bình dị, với những dụng cụ hành nghề rất đơn giản, nhỏ gọn.
Là phương tiện vận chuyển tiện lợi, taxi bắt đầu xuất hiện ở Sài Gòn - Chợ Lớn vào khoảng cuối những năm 40 và thịnh hành những năm 50 của thế kỷ 20. Trong ảnh là chiếc taxi năm 1970 (ảnh trên) và hiện nay (ảnh dưới).
Sài Gòn xưa có hàng nước, quán cóc bán trà đá, trà chanh…thì trên phố Sài thành hiện nay cũng phổ biến gánh hàng, bàn giải khát với đủ loại nước có ga, nước chanh, sâm lạnh, nước dừa...
Nghề đưa thư ở Sài Gòn bắt đầu phát triển từ đầu thế kỷ 20, chủ yếu là bằng chân, do các đoàn người vận chuyển từ nơi này đến nơi khác, chỉ một số ít thư được vận chuyển bằng xe. Khi đó đất phương Nam còn nhiều rừng rậm thú dữ nên nghề đưa thư khá nguy hiểm. Ngày này nhờ sự phát triển của công nghệ thông tin, máy móc thiết bị hiện đại nên việc thông tin liên lạc đã nhanh chóng, tiện lợi hơn nhiều lần.
Hình ảnh chiếc xe đẩy bán hủ tíu dạo gắn liền với văn hóa ẩm thực Sài Gòn hơn 100 năm nay. Những chiếc xe bán hủ tíu đến nay gần như vẫn còn giữ nguyên cách buôn bán lề đường, đặc biệt là là tiếng gõ “lách cách” đặc trưng. Ngày nay vẫn còn những tiệm bán hủ tíu trên 50 năm tuổi như các tiệm của người Hoa ở khu Chợ Lớn, trên đường Triệu Quang Phục (quận 5), đường Gia Phú (quận 6),...
Gánh hàng rong đã có từ rất lâu đời, và trở thành một nét văn hóa đặc trưng rất Sài thành. Trải bao thăng trầm dâu bể của thời cuộc, gánh hàng rong ngày nay không khác xưa là mấy, vẫn đơn sơ quà vặt, bình dị những tiếng rao.
Nghề sửa giày bắt đầu xuất hiện vào đầu thế kỷ 20, cho đến nay đã trở thành một trong những nghề thủ công lâu đời nhất tại Sài Gòn. Sửa giày được xem là một nghề khá nhàn nhã, thu nhập không cao nhưng ổn định, bất cứ khi nào cũng có việc để làm. Ngày nay, nghề sửa giày ít nhiều đã bị mai một, nhưng vẫn có thể bắt gặp những người thợ già đang miệt mài đóng giày trên hè phố, nhất là ở các đường Lê Thánh Tôn, Hai Bà Trưng (quận 1)...

Ảnh khỏa thân tuyệt đẹp của sao Hàn

Tự hào vì cơ thể hoàn hảo, nhiều mỹ nữ xứ Hàn chẳng ngại trút xiêm y trước ống kính máy ảnh.

Ngôi sao Romance Town - Min Hyorin trên tạp chí Ceci.
Để khuyến cáo về căn bệnh ung thư vú ở phụ nữ, 'sao' Giày thủy tinh - Kim Hyun Joo khoe vẻ đẹp thanh tân.
Ca sĩ nhạc dance xứ kim chi Shin Mina khỏa thân để bán album.
Dưới tay nghề của nhiếp ảnh gia, nữ hoàng sexy Lee Hyori toát lên sự quyến rũ khó cưỡng.
Siêu mẫu xứ Hàn Lee Jeny từng trở thành tâm điểm chú ý khi tung ra loạt ảnh khỏa thân nóng bỏng.
Ngôi sao Hearstrings -Woori - không ngại khỏa thân trước ánh nhìn mê mẩn của bạn diễn nam.
Yoon Eun Hye cũng nằm trong danh sách dàn sao nữ chịu khó cởi.
Chưa kịp nổi vì đóng phim, nữ diễn viên Chu Ja Hyun đã được công chúng biết tới vì những tấm ảnh nude táo bạo.
Người mẫu kiêm diễn viên nổi tiếng Kwak Hyun Hwa từng hâm nóng dư luận bằng loạt ảnh nóng bỏng không kém gì các nữ diễn viên xinh đẹp khác.

Thứ Năm, 22 tháng 9, 2011

Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp

Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp là sự tự cam kết của doanh nghiệp thông qua việc xây dựng và thực hiện hệ thống các quy định về quản lý của doanh nghiệp, bằng phương pháp quản lý thích hợp trên cơ sở tuân thủ pháp luật hiện hành, nhằm kết hợp hài hoà lợi ích của doanh nghiệp, người lao động, Nhà Nước và xã hội; là việc ứng xử trong quan hệ lao động của doanh nghiệp nhằm đảm bảo lợi ích của người lao động, doanh nghiệp, khách hàng và cộng đồng; bảo vệ người tiêu dùng và tuân thủ các quy định trong bộ CoC nhằm đạt được mục tiêu chung là phát triển bền vững”.

Ý nghĩa đối với doanh nghiệp
Việc triển khai thực hiện trách nhiệm xã hội sẽ có tác dụng tích cực về nhiều mặt đối với doanh nghiệp.
Một là, trách nhiệm xã hội sẽ góp phần quảng bá và phát triển thương hiệu cho doanh nghiệp.
Hai là, việc thực hiện trách nhiệm xã hội trong doanh nghiệp luôn gắn với việc đảm bảo chế độ lương bổng, đảm bảo an toàn lao động, tăng cường sự tự do hiệp hội, …, qua đó có tác dụng kích thích tính sáng tạo của người lao động, cải tiến liên tục trong quản lý và trong việc nâng cao năng suất, chất lượng lao động, cải tiến mẫu mã hàng hoá, qua nâng cao hiệu quả công việc trong toàn doanh nghiệp, tạo ra nhiều lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Ba là, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường
Bốn là, việc thực hiện trách nhiệm xã hội sẽ giúp doanh nghiệp tồn tại và phát triển trong sự cạnh tranh gay gắt hiện nay.

Ý nghĩa đối với người lao động
Trước hết, người lao động sẽ được làm việc trong một môi trường làm việc mà ở đó, pháp luật lao động được tuân thủ nghiêm ngặt, những quy định của pháp luật của nước sở tại đối với quyền và lợi ích của người lao động sẽ được thực thi nghiêm túc, qua đó, tạo ra được động cơ làm việc tốt cho người lao động.
Điều đáng quan tâm là, khi doanh nghiệp cam kết thực hiện trách nhiệm xã hội, các vấn đề như lao động cưỡng bức, sử dụng lao động trẻ em, quấy nhiễu và lạm dụng lao động, phân biệt đối xử sẽ bị hạn chế và loại bỏ;
Vấn đề thù lao lao động sẽ được thực hiện tốt, đảm bảo tái sản xuất sức lao động cho người lao động;
Vấn đề an toàn và sức khoẻ của người lao động được doanh nghiệp chú trọng đầu tư, chế độ làm việc – nghỉ ngơi khoa học sẽ được thực hiện, qua đó tạo ra môi trường làm việc an toàn, chế độ làm việc hợp lý cho người lao động…

Ý nghĩa đối với khách hàng
Thoả mãn những yêu cầu cơ bản mà họ đặt ra với doanh nghiệp: những sản phẩm có chất lượng cao, có giá trị sử dụng tốt, đảm bảo độ an toàn cao khi sử dụng; được sống trong một môi trường trong sạch, một xã hội mà các vấn đề xã hội được giải quyết ở mức độ tốt nhất.

 Ý nghĩa đối với cộng đồng và xã hội
Bảo vệ môi trường.
Giảm tệ nạn xã hội.
Tăng cường các hoạt động từ thiện, góp phần giảm gánh nặng cho xã hội.
Thực hiện trách nhiệm xã hội trong doanh nghiệp gặp những khó khăn, thách thức:
-         Một là, nhận thức về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở nhiều doanh nghiệp chưa cao. Nhiều doanh nghiệp còn chưa hiểu hết bản chất của trách nhiệm xã hội và sự cần thiết phải thực hiện nó. Có doanh nghiệp còn coi trách nhiệm xã hội như là một gánh nặng, là một khoản chi phí, không mang lại lợi ích cho doanh nghiệp;
-         Hai là, chi phí cho việc thực hiện trách nhiệm xã hội đối với doanh nghiệp khá lớn, trong khi đó, vấn đề tìm kiếm các nguồn vốn đối với nhiều doanh nghiệp lại là vấn đề khó. Doanh nghiệp sẽ phải đứng trước sự lựa chọn, nên thực hiện trách nhiệm xã hội từng bước hay thực hiện trọn bộ các quy định của một bộ CoC nào đó để mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm ngoài nước;
-         Ba là, doanh nghiệp còn hạn chế nhiều nguồn lực, trong đó có nhân lực và vật lực cần thiết. Sẽ rất khó khăn cho doanh nghiệp muốn xây dựng một hệ thống quản lý chất lượng tốt song lại không đủ các điều kiện cần thiết để thực hiện nó.
- …

5 Step Guide to a Successful Brand PR Campaign

Effective brand PR has been proven over time to be one of the most essential ingredients when trying to create a successful business or service. Many of the world's top marketing specialists actually agree that in most cases a well formatted PR campaign is far more beneficial than any amount, style or type of advertising.
So, how can a new business owner or company ensure that their PR is effective? Below is a simple, easy-to-use guide which outlines the five essential steps needed to create an efficient, creative and unique public relations campaign.
Step one: Before delving too deeply into a PR campaign it is important to first consider how, when and why the campaign is needed. Business owners, companies and service providers should all take the time to define and develop the objectives behind their desired campaign. For example, is the brand PR meant to build good will amount suppliers, press or the surrounding community? Generate sales and leads? Undo the damage of negative publicity or wrongful accusations?
Each of these scenarios requires a different and unique type of PR. By concentrating initially on these specific needs companies and businesses can ensure that their efforts are well focused and narrowly targeted.
Step Two: Once the need for brand PR is recognised the next step is to outline specific, time-sensitive and measurable marketing goals. When well-defined these goals can help a PR campaign to remain in-line with the existing marketing approach, packaging, positioning and sales objective.
Step Three: In addition to goals and PR needs it is also important for businesses and companies to carefully target their desired clientele when designing a brand PR approach. For example, is the campaign meant to attract families? If so, public and family-friendly facilities may be the best place to begin spreading the word.
Step Four: Consider a reasonable and strategic timeline. A successful brand PR campaign should be schedule to coincide with other existing and proven marketing efforts. For example, if the brand PR is designed to focus on a newly released product or service then a company should combine their campaign with annual sales, community support programs or even seasonal clearance.
Step Five: Take the steps necessary to measure and assess the success of each marketing and brand PR campaign. Companies may want to consider keeping a campaign journal to note which efforts were beneficial and worth doing again and which were simply a failed attempt leading to monetary loss and are in need of modification.

Article Source: http://EzineArticles.com/4583342

PR, AD hay Brand ?

Quy luật chung là: quảng bá trước, quảng cáo sau. Còn Xây dựng thương hiệu là kết hợp nhuần nhuyễn cả 2


1) Quảng bá (PR – Public Relations)
Đó là những hoạt động đối ngoại, hoạt động giao tế, quan hệ cộng đồng…Điều này chứng tỏ công ty quan tâm đến cộng đồng xã hội , tạo cái nhìn tốt đẹp cho mọi người về mình
Trên nguyên tắc là tiêu chuẩn đạo đức: thông tin đúng đối tượng, đúng chỗ, đúng lúc, đúng cách bằng phương tiện phù hợp.
Một hoạt động PR tốt là hoạt động khiến đối tượng hiểu và đánh giá đúng một cách tích cực bản chất của chủ thể của hoạt động đó.
PR là một quà trình thông tin hai chiều. Các chuyên gia tư vấn PR không chỉ đưa ra thông tin tới đối tượng của mình mà còn phải lắng nghe và nắm bắt được tâm lý, ý kiến và xu hướng của cộng đồng để có thể dự đoán được các phản ứng có thể, qua đó tiếp tục xây dựng chiến lược PR của mình cho phù hợp.
** Một số ví dụ về PR thành công ở Việt Nam:
+ Tã lót Huggies – Bé Huggies năng động
+ Omo – Gửi tặng đồng phục đi học mà bạn không dùng nữa cho bột giặt OMO
2) Quảng cáo ( AD – Advertising ) :

Đó là cách tác độg trực tiếp đến khách hàng và tạo dựng sự tầm cỡ hàng đầu của nhãn hiệu với chất lượng sản phẩm vượt trội. Đó là yếu tố quan trọng nhất tác động tới hành vi mua sắm của người tiêu dùng .Vì hầu như ai cũng muốn mua sản phẩm tốt hơn, nên họ sẽ chọn nhãn hiệu hàng đầu.
Đây là 1 vòng tròn khép kín về đường đi của 1 sản phẩm. Bởi  Vì thế sản phẩm tốt hơn sẽ chiến thắng trên thị trường. Còn quảng cáo sẽ giữ nhãn hiệu đó ở vị trí hàng đầu và làm cho người tiêu dùng tin rằng nó là sản phẩm tốt hơn.
Ngày nay, có 3 cách để truyền thông đại chúng hiệu quả theo chuyên gia Philip Kotler:
Cách 1: Quảng cáo đổ bộ:
Quảng cáo trên tất cả các phương tiện trong cùng 1 khoảng thời gian.
Cách 2: Tài trợ Sự kiện:
World Cup, Olympics là 2 trong số những chương trình có thể thu hút hàng tỷ người hâm mộ trên toàn thế giới.
Cách 3: Xây dựng một cơ sở dữ liệu khổng lồ:
trong đó chứa đựng thông tin chi tiết của khách hàng hiện tại và khách hàng tiềm năng.
Ngân sách dành cho quảng cáo không phải là những khoản đầu tư sinh lãi, mà nên coi đó là 1 khoản bảo hiểm để đề phòng những tổn thất do đối thủ cạnh tranh gây ra.
Nếu không muốn chi tiền cho quảng cáo, doanh nghiệp phải tự hài lòng với việc chỉ gặm nhấm phần rìa bánh của chiếc bánh thị phần.
** VD:
+ Prudential – Luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu => Chăm sóc khách hàng tốt
+ Heineken – Heineken refreshes the parts other beers cannot reach => Bia cao cấp dành cho người thành đạt, giúp người uống khẳng định được địa vị xã hội của mình
3) Xây dựng thương hiệu (Branding)
Xây dựng những ấn tượng, cảm nhận tốt về thương hịêu trong tâm trí cũng như trái tim người tiêu dùng đi về lâu dài .
+ BMW: Không chỉ là 1 phương tiện đi lại chất lượng tốt mà còn khẳng định ”Tôi là dân chơi kiểu BMW”
+ Parkson: Khẳng định địa vị, thu nhập của người ấychứ không chỉ là món đồ . Giá trị tinh thần là : sang trọng, thành đạt, đắt tiền và sành điệu.
 Tổng hợp

Những điểm ưu việt của PR so với Quảng cáo

PR – Quan hệ công chúng (Public Relation) ra đời sau quảng cáo nhưng ngày càng chứng tỏ hiệu quả vượt trội hơn hẳn so với quảng cáo. Công dụng của PR đã được các công ty lớn trên thế giói chứng minh. Cụ thể như, nhờ khai thác thành công công cụ PR mà các công ty như Coca-Coke, Apple, Nokia, KFC…trở thành những thương hiệu hàng đầu thế giới.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp trong nước chưa thấy được những ưu điểm của PR. Thay vì sử dụng quan hệ công chúng trong tiếp thị thì hầu hết doanh nghiệp Việt Nam chi rất nhiều cho quảng cáo mặc dù họ biết thành công của một chiến dịch quảng cáo không dễ dàng và không kéo dài. Lẽ ra các doanh nghiệp Việt Nam nên tận dụng triệt để công cụ PR vì nó thích hợp với quy mô vốn vừa và nhỏ của doanh nghiệp, và cũng vì PR thật sự sẽ mang lại hiệu quả nhiều hơn cho doanh nghiệp so với quảng cáo. Và đó là những hiệu quả gì?

Bài viết dưới đây xin khái quát 5 điểm ưu việt chính của PR so với quảng bao gồm: sức mạnh ảnh hưởng của PR, độ tin cậy của thông điệp quan hệ công chúng, tính lâu dài của ảnh hưởng PR, lợi ích do các hoạt động PR mang lại và ngân sách dành cho nó.
Một là, sức ảnh hưởng của PR lớn hơn so với quảng cáo
Al Rie, tác giả của cuốn sách nổi tiếng “Quảng cáo thoái vị và PR lên ngôi” đã ví PR với hình ảnh mặt trời. Ông nhắc lại câu chuyện ngụ ngôn của Aesop, trong đó Mặt trời và Gió tranh cãi với nhau ai là người mạnh hơn. Chúng cùng nhau thi tài và ai lấy được chiếc áo khoác của người khách du lịch ra khỏi ông ta thì sẽ chiến thắng. Gió càng thổi mạnh thì người khách du lịch càng giữ chặt chiếc áo khoác vào người. Nhưng đến phiên mặt trời, mặt trời chỉ cần toả ánh nắng. Chẳng bao lâu khách cảm thấy nóng nực và tự cởi áo khoác ra. Mặt trời đã thắng cuộc.

Rõ ràng không thể dùng sức mạnh để đột nhập vào trong đầu khách hàng tiềm năng. Quảng cáo được hiểu như một sự áp đặt, một khách hàng không mời mà đến, cần thiết phải chống lại. Việc bán hàng cũng như ngọn gió kia càng thổi mạnh bao nhiêu, khách hàng tiềm năng càng cưỡng lại thông điệp bán hàng bấy nhiêu.

Trái ngược với quảng cáo, PR là mặt trời. Sức ảnh hưởng của nó tồn tại ngay trong chính nó. Thông điệp của PR chính là “sự quan tâm chú ý của khách hàng đến sản phẩm của chúng ta thì chúng ta sẽ dễ dàng được chấp nhận”.

Hai là, các hoạt động PR mang đến nhiều thông tin đáng tin cậy hơn cho người tiêu dùng.
Điều này có thể giải thích bởi những nguyên nhân khác nhau.
Lí do thứ nhất bởi vì chẳng có thông tin gì trên quảng cáo ngoài hình ảnh. Lời nói nếu có chỉ để tăng cường cho hình ảnh mà thôi. Người ta ít tin cậy lời nói trong một quảng cáo bởi lời nói trên những banner quảng cáo luôn hô hào sáo rỗng “Chúng tôi là tốt nhất”. Phản ứng của người tiêu dùng sẽ là “công ty nào mà chẳng nói như thế!”
Khẳng định sự vượt trội so với quảng cáo, PR dùng ngôn từ để diễn đạt thay vì hình ảnh. PR đã “đánh trúng” tâm lí của người tiêu dùng là khách hàng suy nghĩ bằng ngôn từ, không bằng hình ảnh. Và hình ảnh của doanh nghiệp được truyền tải bởi bên thứ ba của đại diện của quan hệ cộng đồng nên được đánh giá là khách quan và dễ gây được lòng tin hơn so với hoạt động quảng cáo thường mang tính chất thông tin 1 chiều và một khi những thông tin về doanh nghiệp đã được công chúng thưà nhận, tạo ra dư luận tốt, nó sẽ có sức lan tỏa rộng lớn. Anh chàng Joe sẽ không gọi phục vụ mang ra một “loại bia mà Louie uống”. Không, anh ta sẽ kêu một loại bia khác và nghĩ, "Vua của các loại bia, loại bia bán chạy nhất ở Mỹ, loại bia mà tất cả bạn bè tôi đều uống…”

Một lí do khác khiến khách hàng thường không dễ tin vào những thông điệp quảng cáo bởi vấn đề không đơn giản là làm cho công chúng nhớ đến sản phẩm hay thương hiệu mà phải nhở đến với một thiện cảm. Các nhà quản trị thương hiệu đã phát hiện thấy PR có khả năng dành lấy tình cảm công chúng. Nếu như quảng cáo tìm cách đưa tới cho công chúng lý do để họ lựa chọn sản phẩm của doanhh nghiệp thì PR tìm cách “thu phục nhân tâm” quần chúng. Hoạt động PR cung cấp cho thị trường những thông tin, kiến thức cần thiết về doanh nghiệp và sản phẩm. Và mọi người thường tin tưởng vào những thông tin được các nhà phân tích báo chí đăng tải. “Bất cứ nơi nào mà quảng cáo được xem như là một sự tuyên truyền về sản phẩm thì một bài viết của một phóng viên hay một nhà biên tập thì độc giả sẽ cho rằng thật hơn và hữu ích với họ hơn. Chúng ta vốn dĩ đã nghi ngờ về các mẫu quảng cáo và chúng ta cũng thường có khuynh hướng không quan tâm đến chúng. Tuy nhiên chúng ta vẫn thường cắt những mẫu tin hữu ích và được trình bày kỹ lưỡng và gởi cho những người thân” (trích trong “Quảng cáo thoái vị và PR lên ngôi”)

Ba là, doanh nghiệp thừa hưởng ảnh hưởng của PR lâu dài hơn so với ảnh hưởng của quảng cáo.
Không có gì vô dụng cho bằng mẩu quảng cáo của ngày hôm qua. Nó sẽ kết thúc trên tường của một đại lý quảng cáo hay trong một cuốn sách về các quảng cáo đoạt giải thưởng. Nhưng, đối với một người tiêu dùng bình thường, một mẩu quảng cáo chẳng khác nào một chú bướm: sống ngắn ngủi rồi chết.
Đối với PR thì không như thế. Một tin tức hay bài báo hay sẽ sống mãi. Chiến lược cơ bản của PR là đăng tin trong một tờ báo và, giống như leo thang, đưa nó đến một tờ báo lớn hơn, hoặc từ báo in sang đài phát thanh hay truyền hình. Trong PR hiện đại, điều quan trọng là có được bài báo đầu tiên thật thích hợp. Bài báo đầu tiên này sẽ có ảnh hưởng lớn đến các tin bài sau đó. Thông tin trên một tờ báo có thể sẽ được phản ánh lại trên nhiều tờ báo khác trong những năm sau đó. (Ngược lại, không có ai lại đi phối kiểm với những quảng cáo cũ).
Các phương tiện truyền thông đại chúng vận hành y như đầu óc một con người. Một khi có một cụm từ đã hình thành trong đầu, thì quả là nan giải khi muốn thay đổi nó. ”Tỉ phú Ron Perlman” là cụm từ mà giới truyền thông vẩn sử dụng để chỉ ông chủ của hãng mỹ phẩm Revlon. Mặc dù với sự sa sút của Revlon và các khoản đầu tư khác của ông Perlman không còn là một tỉ phú nữa từ nhiều năm rồi. Nhưng, đối với giới truyền thông thì vẫn cứ là “tỉ phú Ron”.
Bốn là, hoạt động PR có tác dụng tích cực cho xã hội
Bằng việc tham gia hay phát động những hoạt động mang tính chất hỗ trợ cộng đồng như ngày hội khách hàng, tư vấn việc chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em, chia sẻ nỗi đau với nạn nhân chất độc màu da cam…các doanh nghiệp ít nhiều đã góp phần chia sẻ với cộng đồng và xã hội. Ví dụ chương trình “P/S bảo vệ nụ cười” của Unilever, “Đèn đom đóm” của Dutch Lady Việt Nam, chương trình “Thắp sáng ước mơ xanh” của Công ty Dệt May Thái Tuấn, “Tiếp sức mùa thi” của Thiên Long, “Ươm mầm tài năng” của Vinamilk hay “Ấm áp mùa đông” của Công ty 4 Oranges,… là những ví dụ điển hình của hoạt động PR vì một mục đích cao đẹp chung tay xây dựng cộng đồng Việt Nam ngày một tốt đẹp hơn.

Năm là, doanh nghiệp không phải đầu tư chi phí lớn cho hoạt động PR như quảng cáo
Thay vì phải tốn nhiều tiền cho quảng cáo mà kết quả thu được không cao, các doanh nghiệp Việt Nam chỉ cần chi một khoản ngân sách bằng 1/10 phí quảng cáo cho một chiến lược PR đã có thể mang lại những hiệu quả khó có thể được biểu thị bằng 1 con số chính xác. Các hoạt động của nó thường có chi phí thấp hơn do không phải chi các khoản tiền lớn thuê mua thời lượng trên các phương tiện truyền thông và không cần chi phí thiết kế sáng tạo và sản xuất cao. Ngân quỹ cho hoạt động PR của các công ty thường ít hơn chi phí quảng cáo hàng chục lần. Tuy nhiên, hiệu quả thông tin thường lại không thấp hơn, do tính chất tập trung của đối tượng và nhờ tác dụng rộng rãi của truyền miệng (word – mouth). Hoạt động PR thích hợp với các doanh nghiệp Việt Nam.

Thứ Bảy, 17 tháng 9, 2011

Phim Hàn hút fan bằng nụ hôn "cấm tuổi dưới 19"

“Musical” - Nụ hôn “cấm dưới 19”

Bộ phim truyền hình đang thu hút sự chú ý của khán giả bởi sự trở lại màn ảnh nhỏ của “nàng Cỏ” Goo Hye Sun chính là “Musical”. Trong tập 3 sẽ phát sóng vào 16, nhà sản xuất đã công bố sớm hình ảnh cặp bạn diễn Choi Daniel và Ok Joo Hyun hôn nhau trong phòng tập piano.

Phim Hàn hút fan bằng nụ hôn
Choi Daniel và Ok Joo Hyun hôn nhau trong
 phòng tập piano

Đây là cảnh Bae Kang Hee (Ok Joo Hyun) hồi tưởng lại quá khứ, thời cô và Hong Jae Yi (Choi Daniel) yêu nhau. Nụ hôn ngọt ngào và say đắm tới mức được liệt vào cảnh hôn cấm trẻ em dưới 19 tuổi.

Phim Hàn hút fan bằng nụ hôn
Nụ hôn ngọt ngào và say đắm tới mức được liệt vào
cảnh hôn cấm trẻ em dưới 19 tuổi

Đây là cảnh quan trọng để giúp khán giả hiểu rõ về quá khứ của 2 nhân vật. Nhà sản xuất đã bật mí: “Để quay cảnh nụ hôn vừa đẹp nhất lại vừa làm sống dậy những cảm xúc thăng hoa, Ok Joo Hyun và Choi Daniel phải hôn nhau mãnh liệt tới độ ngỡ như đang cắn nát môi nhau. Mọi người trong ê kíp phải nín thở để cảnh quay được tốt hơn đã quay lại mất mấy lần. Cuối cùng cũng hoàn thiện được 1 cảnh hôn “cấm dưới 19 tuổi” vượt qua cả quy chuẩn phát sóng truyền hình. Vì thế mới nhờ tới “ma thuật” của biên tập để điều chỉnh lại cho phù hợp quy định, tái sinh nên cảnh “piano kiss” (nụ hôn bên piano) phá cách đầy nóng bỏng”.

Phim Hàn hút fan bằng nụ hôn
Ok Joo Hyun và Choi Daniel phải hôn nhau mãnh liệt

Cảnh quay này cũng sẽ mở ra những xung đột trong mối quan hệ 3 người, giữa Bae Kang Hee, Go Eun Bi (Goo Hye Sun) và Hong Jae Yi. Dù trước đây, Kang Hee và Jae Yi có yêu nhau nhưng hiện tại, thiên tài âm nhạc Jae Yi lại đang hướng tình cảm tới cô nàng Go Eun Bi luôn mơ ước trở thành diễn viên nhạc kịch.

“Musical” - bộ phim về đề tài nhạc kịch - đang thể hiện sự thành công ngay khi mới chỉ vừa ra mắt 2 tập đầu.

“Princess’s man” - Nụ hôn trong nước mắt

Trong tập phát sóng vào ngày 15, tỷ lệ rating (khán giả xem phim) tuy có giảm 2,4% so với tập trước nhưng vẫn vững vàng ở vị trí số 1 trong khung giờ phim tối thứ 4&5. Theo AGB, hiện tại rating của câu chuyện tình Romeo&Juliet thời Chosun này đang đạt 22,2%.

Trong tập hôm qua, cảnh phim ấn tượng nhất chính là cuộc gặp gỡ trong chia ly giữa Jung Jong và công chúa Kyung Hye, trước kế hoạch ám sát tướng quân Soo Yang. Jung Jong và Kyung Hye đã cùng nhau chia tay quyến luyến trong 1 đêm đầy nước mắt. “Ta lo sợ sẽ không thể gặp lại nàng, ta lại càng lo sợ” – Jung Jong. “Chàng nhất định phải sống và quay trở về” – công chúa Kyung Hye nói. Và cả hai đã trao nhau nụ hôn trong nước mắt. Sau 1 đêm ở bên nhau, sáng ngày hôm sau khi tỉnh dậy, Jung Jong đã ôm lấy công chúa Kyung Hye từ phía sau khi nàng đang đứng bên ngoài. Cuộc chia tay bịn rịn hơn nữa khi Jung Jong đeo vào tay công chúa chiếc nhẫn định mệnh.

Phim Hàn hút fan bằng nụ hôn
Jung Jong và công chúa Kyung Hye chia tay bịn rịn

Phim Hàn hút fan bằng nụ hôn
Họ trao nhau nụ hôn trong đêm đầy nước mắt

Phim Hàn hút fan bằng nụ hôn
 Jung Jong ôm chầm lấy công chúa từ sau lưng

Phim Hàn hút fan bằng nụ hôn
Và trao nàng chiếc nhẫn định mệnh

“Protect the boss” - Nụ hôn trên giường

Nụ hôn thứ 4 giữa ông chủ và thư ký trong “Protect the boss” khiến 2 người trở thành “cặp đôi nhiều cảnh hôn nhất” trong số những cặp bạn diễn trên màn ảnh nhỏ Hàn hiện nay.

Phim Hàn hút fan bằng nụ hôn
Nụ hôn trao và nhận từ 2 phía của ông chủ và
thư ký khiến fan thấy thoả lòng

Từ nụ hôn tấn công bất ngờ, nụ hôn trên bậc cầu thang, nụ hôn lên trán và giờ là nụ hôn trên giường, cho thấy tình cảm của 2 nhân vật chính đang tiến triển rõ rệt. Sau khi được sự đồng ý của cha Ji Hyun, thư ký No Eun Seol vẫn chưa chính thức thừa nhận tình cảm trong chính trái tim mình. Bước tiến trong tình cảm giữa cô thư ký và ông chủ diễn ra nhẹ nhàng và không mất đi “chất No Eun Seol” trong đó. Khán giả thậm chí còn tò mò, không biết cặp đôi này sẽ còn “khoá môi” mấy lần nữa khi quay hết phim.

Phim Hàn hút fan bằng nụ hôn
No Eun Seol và Ji Sung mắt nhìn mắt, môi trao môi

Nữ diễn viên Choi Kang Hee trong vai thư ký No Eun Seol chia sẻ, chỉ nhìn cảnh quay nụ hôn trong phim thông thường cũng đã thấy khó, nhưng chỉ trong bộ phim Protect the boss lần này cô đã có kinh nghiệm hôn tới 4 lần.

Giấu gần 1 kg cocaine trong bụng

Một thanh niên Ireland đã bị bắt giữ tại Brazil với gần 1 kg cocaine được cất giấu trong ruột anh ta, hãng tin BBC dẫn nguồn từ cảnh sát Brazil cho hay hôm 16.9.

Nghi can 20 tuổi này bị bắt giữ khi đang tìm cách lên máy bay đi từ Sao Paulo (Brazil) đến Brussels (Bỉ).
Giới chức sân bay đã nghi ngờ do nghi can trên lộ vẻ lo lắng. Khi bị thẩm vấn, nghi can đã thừa nhận anh ta đã nuốt hàng chục viên cocaine.


Ngay sau đó, anh ta được đưa đến bệnh viện và kết quả là 72 viên chứa 830 g cocaine được lấy từ ruột của anh ta.
Nghi can này đã bị bắt giữ vì tình nghi buôn lậu ma túy quốc tế.
Nếu bị kết tội, anh ta có thể đối mặt với từ 5-15 năm tù giam, theo BBC.
Được biết, Brazil là một trạm trung chuyển ma túy lớn từ Nam Mỹ sang châu Âu.

Những câu chuyện sét đánh lạ kỳ khó tin

Sét là 'cánh tay' đầy uy lực của tự nhiên và đôi khi con người không thể giải thích nổi những hiện tượng mà nó gây ra.

1. Cả đội bóng chết vì sét đánh
Trong trận đấu giữa đội Bena Tshadi và đội khách Basanga diễn ra tại Cộng hòa dân chủ Congo, tất cả 11 thành viên của một đội bóng đã thiệt mạng do chùm sét đánh phải trong khi tất cả cầu thủ của đội kia lại không hề bị thương. 30 nạn nhân khác cũng bị bỏng trong trận đấu này. Hai đội bóng vừa kết thúc trận đấu với tỷ số hòa 1-1 tại tỉnh Kasai thì sấm sét xuất hiện.
Mặc dù cả hai đội vẫn trên sân bóng ở vị trí ngẫu nhiên, nhưng toàn bộ cầu thủ của đội nhà vẫn bình an vô sự. Người ta vẫn không thể hiểu sự thực nào đang diễn ra.
2. Sét đánh 7 lần không chết
Trong 80 năm qua, khả năng 1 người bình thường bị sét đánh là rất thấp, 1/3.000. Nhưng từ năm 1942 đến năm 1977, Roy Sullivan, đến từ Mỹ, đã 7 lần bị sét đánh. Nhưng kỳ lạ thay, ông Roy vẫn toàn mạng.
Sách kỷ lục Guinness Thế giới đã công nhận ông Roy là người bị sét đánh nhiều nhất. Mối tình không toàn mỹ đã khiến ông Roy tự sát bằng súng khi bước sang tuổi 71.
3. Em bé 13 tuổi bị sét đánh lúc 13 giờ 13 phút, thứ 6 ngày 13
Thêm một vụ việc nữa cho thấy thứ Sáu ngày 13 là ngày ma ám. Vào tháng 8 năm 2010, một teen người Anh đã bị sét đánh vào đúng lúc 13 giờ 13 phút trong khi đang hòa trong đám đông 170.000 người đi xem biểu diễn erobic trong lễ hội Seafront Air ở Anh.
Thật may cậu bé chỉ bị bỏng nhẹ. Nhưng ai cũng hoảng hốt khi biết cậu bé này cũng 13 tuổi.
4. Bị sét đánh vào đúng “của quý”
Một người đàn ông Croatia có lẽ đang cầu mong câu tục ngữ “Sét không bao giờ đánh 2 lần một chỗ” trở thành hiện thực. Không may mắn cho anh Ante Djindjic, 29 tuổi, đến từ Zagreb đã bị sét đánh đúng vào “của quý” khi đang đi vệ sinh giữa đường. Anh Ante nói: “Tôi không nhớ chính xác chuyện gì đã xảy ra. Tôi đang dừng lại để đi tiểu và tiếp đến là tôi tỉnh dậy trong bệnh viện. Các bác sỹ cho biết, sét đã chạy qua người tôi bởi vì tôi đang đi ủng cao su, nên sét đã nối đất qua “chỗ ấy” của tôi”.
Điểm lạ thường nữa là anh Djindjic lại không hề bị tổn thương chỗ nhạy cảm, chỉ ngực và cánh tay của anh bị bỏng mà thôi. Anh chia sẻ: “Thật may, bác sỹ khẳng định sự cố đó không để lại hậu quả lâu dài, tôi vẫn có thể thực hiện chức năng “đàn ông” bình thường”.
5. Sét đánh khiến dây tai nghe iPod lên tới 300.000V
Một bạn teen nữ đã may mắn sống sót trong lần sét đánh khủng khiếp bởi chính chiếc tai nghe của máy nghe nhạc iPod của bạn ý cứu mạng. Sophie Frost và bạn trai, cả hai cùng 14 tuổi, đã dừng lại trú mưa ở dưới một gốc cây. Các bác sỹ tin rằng Sophie có cơ may sống sót trước tia sét có nguồn điện lên tới 300.000V là do chiếc tai nghe đã truyền điện nối đất.
Bạn Sophie đã được mang tới bệnh viện và điều trị những vết bỏng ở ngực và chân trong khi bạn trai của Sophie bị thương nặng ở mắt.
6. Bị sét đánh giữa ngày nắng
Cố bé 11 tuổi đến từ Pennsylvania đang dần phục hồi sau khi bị sét đánh đúng vào một ngày trời nắng trong xanh. Theo Lisa Wehrle, mặt trời vẫn tỏa nắng khi cháu gái bà, Britney, bị sét đánh, có lẽ sét xuất hiện từ một cơn bão cách đó vài km.
Sét đã đánh trúng Britney khi cô bé đang đi xuống đồi ở thị trấn ở North Strabane cùng với 1 người bạn lúc 2 giờ 30 phút chiều. Vai trái của Britney bị thương và cô bé đã được điều trị ở bệnh viện Pittsburgh. Các bác sỹ chuẩn đoán cánh tay của Britney bị gãy.
7. Sét đánh đúng hậu môn
Một người phụ nữ Croatia đã bị bỏng nặng ở hậu môn sau khi bị sét đánh trúng. Cô Natasha Timarovic đang đánh răng vào buổi sáng, khi đó cô đang mở miệng ra thì bị sét đánh. Dòng điện truyền qua người nhưng không thể tiếp đất do cô Natasha đi giày đế cao su, vì vậy mà dòng điện đã thoát ra đằng hậu môn của nạn nhân.
Sau đó dòng diện truyền qua tấm rèm chắn ẩm ướt. “Đây thực sự là cơn đau khủng khiếp, tôi cảm thấy nó đi qua cơ thể mình và tôi không nhớ nhiều lắm”, cô Natasha kể lại. “Thay vì điện tiếp đất qua chân, nó đã chạy qua đằng sau người cô ấy. Nếu cô ấy không đi giày cao su, có thể cô ấy đã thiệt mạng”, một bác sỹ giải thích.
8. Hai lần bị sét đánh liên tiếp
Alice, 12 tuổi, đến từ Gothenburg, đã bị sét đánh 2 lần liên tiếp trong khi đang tắm. Sau bữa tối, Alice xuống tầng dưới để tắm và bố mẹ cô đã nghe thấy tiếng la hét thất thanh. Chỉ vột vài giây sau tiếng hét của Alice, tiếng sấm cũng nổ theo và mưa bắt đầu rơi.
Alice đã bị sét đánh vào cánh tay, nhưng bố mẹ cô không hiểu chuyện gì đã xảy ra khi đó. Mẹ của Alice, cô Cecilia Svensson, ngay lập tức xuống tầng trệt và giúp con gái gội đầu khi Alice hét lên lần thứ 2. “Nó lại hét lên. Alice đang cầm vòi sen bằng sắt”, mẹ của Alice nhớ lại. Mặc dù trong nhà không bị hư hỏng đồ đạc gì, nhưng chắc chắn rằng sét đã đánh và truyền qua ống dẫn nước.